Ý nghĩa lâm sàng Cơ ngực lớn

Chấn thương

Rách cơ ngực lớn khi nằm đẩy mức tạ 212,5 kg Một vận động viên thể dục dụng cụ sử dụng bột talc để kích hoạt và bảo vệ cơ ngực lớn.

Rách cơ ngực lớn rất hiếm xảy ra và thường gặp ở người khỏe mạnh. Chấn thương này được gặp ở người chơi thể thao, cụ thể là trong các môn thể thao tiếp xúc có tác động mạnh như cử tạ. Rách làm vận động viên đau, cơ yếu và có thể tàn tật. Hầu hết các tổn thương nằm ở vùng gân-cơ, là kết quả của sự co thắt mạnh, lệch tâm của cơ, chẳng hạn như khi nằm đẩy tạ.[11] Bụng cơ ít bị rách hơn, thường là hậu quả của cú đánh trực tiếp. Ở các nước phát triển, hầu hết các tổn thương xảy ra ở nam vận động viên, đặc biệt là những người tập các môn thể thao tiếp xúc và nâng tạ (đặc biệt là trong bài tập nằm ghế nâng tạ). Phụ nữ ít bị những vết rách này hơn vì đường kính vùng gân-cơ lớn hơn, độ đàn hồi của cơ cao hơn và ít chấn thương hơn.[12] Tổn thương được đặc trưng bởi cơn đau đột ngột và cấp tính ở thành ngực và vùng vai, có bầm tím và yếu cơ. Phẫu thuật khâu chỗ rách là phương pháp điều trị ưu tiên để chức năng cơ được bảo tồn, đặc biệt là ở những người tập thể thao.

Hành động nhanh chóng, chẩn đoán chính xác và tiến hành phẫu thuật sửa chữa càng sớm càng tốt là chìa khóa để phục hồi thành công sau chấn thương. Việc do dự khiến chấn thương cấp tính trở thành mãn tính và hậu quả là cơ hội thành công giảm đi đang kế. Sau khi phẫu thuật, cánh tay ở phía bên tổn thương sẽ được cố định bằng đai đeo trong khoảng 6-8 tuần để giảm thiểu/tránh cử động của cánh tay làm đứt sợi cơ ở vị trí phẫu thuật. Khoảng 2 tháng sau khi phẫu thuật, bệnh nhân được duy trì vật lý trị liệu trong khoảng 6 tháng, sau đó cần luyện tập để đạt được kết quả tốt. Hầu hết bệnh nhân có thể trở lại hoạt động sau 6 tháng đến 1 năm sau phẫu thuật.[11] Các chỉ định cận lâm sàng như siêu âm[13]chụp cộng hưởng tử (MRI)[14] đều hữu ích để xác định chẩn đoán, vị trí và mức độ của chỗ rách, mặc dù phương pháp siêu âm tiết kiệm chi phí hơn MRI, nhưng đòi hỏi bác sĩ chẩn đoán hình ảnh có kinh nghiệm.

Hội chứng Poland

Hội chứng Poland là một dị tật bẩm sinh, có một dị tật ở ngực khiến cơ ngực bị khuyết một bên. Các đặc điểm khác của bệnh này là "ngắn một bên ngón trỏ, ngón giữa và ngón nhẫn, thiểu sản bàn tay và không có phần ức của cơ ngực lớn".[15]

Những căn bệnh khác

Cơ ngực lớn trong những trường hợp hiếm hoi có thể phát triển liphoma (u mỡ). Những khối u hiếm gặp như vậy có thể bắt chước các khối u ác tính ở vì chúng trông giống như các khối u phì đại của vú. Chúng là những khối u phóng xạ có mật độ chất béo được bao bọc tốt. Vị trí của chúng có thể được xác định chính xác thông qua chụp cắt lớp vi tínhchụp cộng hưởng từ (MRI). Những trường hợp này buộc phải phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn vì nguy cơ trở thành liposarcoma (ung thư tế bào mỡ) là rất lớn. Cắt bỏ một phần có thể tái phát u mỡ.[16]